Nguyên Nhân Phát Triển Và Biện Pháp Phòng Ngừa Tảo Lam

Tảo lam – như chúng ta vẫn thường hay gọi – thực ra là vi khuẩn lam có khả năng quang hợp và chúng có cấu trúc gần với vi khuẩn hơn là tảo. Tốc độ phát triển của tảo lam chậm hơn các loải tảo khác. Ở nhiệt độ lớn hơn 25oC, hầu hết các loài tảo lam có tốc độ phát triển cực đại. 

Khác với các loài tảo khác là thức ăn cho phiêu sinh động vật trong chuỗi thức ăn, tảo lam không bị tấn công bởi phiêu sinh động vật mà chúng bị tấn công bởi vi khuẩn và virus, khả năng tự phục hồi quần thể của tảo lam cũng cao hơn các loài tảo khác, chính vì thế, mặc dù có tốc độ phát triển chậm nhưng tảo lam rất khó bị tiêu diệt và phát triển bền vững hơn.

Nitơ (N) và phospho (P) là những yếu tố quan trọng giúp tảo phát triển, tỷ lệ N:P = 7:1 là tỷ lệ cần thiết cho tảo phát triển. Cả hai yếu tố này đều hiện diện trong ao thông qua quá trình phân hủy hữu cơ, tuy nhiên hàm lượng phospho thì thấp hơn và cần thiết hơn. Cả nitơ và phospho đều có trong thức ăn tôm, chính vì thế cho ăn dư thừa thường làm tảo phát triển dày đặc, gây thiếu oxy. 

Thành phần giống loài tảo phát triển trong ao phụ thuộc vào tỷ lệ N:P. Khi tỷ lệ N:P cao, tức nguồn P trong ao thấp thì tảo lục chiếm ưu thế, nhưng nếu tỷ lệ N:P thấp, tức nguồn P càng cao thì tảo lam sẽ phát triển.

Tảo lam không có ảnh hưởng ích lợi cho ao nuôi vì sự hiện diện và phát triển của chúng ngoài việc gây ra các tình trạng trên, chúng còn có thể tiết chất độc gây bệnh gan tụy, phân trắng, tiết mùi hôi làm tôm nuôi có mùi lạ. Nhiều loài tảo lam có thể tổng hợp nitơ từ khí trời và khả năng dự trữ P rất lớn trong điều kiện thiếu phospho– điều mà các loài tảo có lợi khác không làm được.

Trong ao nuôi thâm canh mật độ cao, đặc biệt với tôm chân trắng, thức ăn được cung cấp liên tục, có nghĩa là nguồn N và P luôn hiện diện trong ao. Thêm vào đó, P trong thức ăn không được hấp thụ hoàn toàn do thiếu enzyme Phytase trong hệ tiêu hóa của tôm, do đó lượng phospho thải ra môi trường ngoài rất lớn (việc này cũng dẫn đến mất cân đối Ca – Phospho trong nội tại cơ thể tôm, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng). 

Vấn đề càng nghiêm trọng hơn, nếu thức ăn cho ăn dư thừa và không được kiểm soát tốt. Phần lớn những trường hợp thế này, tảo lam sẽ phát triển sau đó, đặc biệt vào mùa nắng khi nhiệt độ nước thích hợp để tảo lam phát triển cực đại. Vì vậy bổ sung enzyme Phytase vào khẩu phần ăn hàng ngày cũng là một giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa tảo lam.

BIỆN PHÁP KHỐNG CHẾ TẢO LAM

Có rất nhiều biện pháp khống chế tảo lam khác nhau, bằng cơ học, hóa chất và sinh học. Tuy nhiên, mỗi biện pháp đều có những nhược điểm nhất định của nó.

Ngoại trừ các biện pháp sinh học và vật lý, các biện pháp hóa học thường đưa đến kết quả là tảo chết hàng loạt gây ra tình trạng biến động chất lượng nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tôm. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất diệt tảo trong ao nuôi tôm nếu không được tính toán kỹ lưỡng cũng có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến tôm.

Ngoại trừ các biện pháp sinh học và vật lý, các biện pháp hóa học thường đưa đến kết quả là tảo chết hàng loạt gây ra tình trạng biến động chất lượng nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tôm. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất diệt tảo trong ao nuôi tôm nếu không được tính toán kỹ lưỡng cũng có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến tôm nuôi, tồn lưu hóa chất, phóng thích độc tố gây hại, làm hư hỏng nền đáy ao nuôi và diệt luôn cả tảo có lợi.

Đối với ao nuôi tôm sú, các hóa chất diệt tảo có thể được sử dụng nhưng với tôm chân trắng các biện pháp hóa học không được khuyến khích vì mật độ nuôi thường rất cao (trên 60 con/m2), hàm lượng oxy hòa tan luôn rất cần thiết trong mọi thời điểm trong ngày và suốt vụ nuôi, trong khi đó các biện pháp hóa học luôn làm mất oxy trong ao nuôi.

Vấn đề đặt ra là làm sao có thể khống chế lượng phospho dư thừa trong ao có nguồn gốc từ thức ăn nhằm phòng ngừa tảo lam phát triển và dùng biện pháp nào để giải quyết tảo lam an toàn khi chúng bùng phát.

Các nghiên cứu cho thấy phospho trong thức ăn ở dưới dạng muối phytate và tôm nuôi không thể hấp thu được, phần lớn chúng được thải loại ra môi trường ngoài dẫn dến ô nhiễm hữu cơ và cung cấp phospho cho tảo lam phát triển, vấn đề nghiêm trọng hơn khi lượng thức ăn cho dư thừa. Enzyme phytase có thể phân cắt muối phytate trong thức ăn thành dạng phospho mà tôm nuôi có thể hấp thu được, đồng thời làm giảm lượng phospho phóng thích vào môi trường ao nuôi đáng kể.

Tuy nhiên, enzyme phytase lại không có sẳn trong đường ruột tôm, do đó mà chúng cần được bổ sung từ bên ngoài.

GIẢI PHÁP SINH HỌC

Biện pháp an toàn và hiệu quả nhất là dùng vi sinh vật hữu ích có thể khống chết tốt tảo lam phát triển. Biện pháp này rất an toàn và không gây ra biến động lớn trong ao nuôi.

Chế phẩm men vi sinh cắt tảo cho thủy sản của công ty TNHH Công Nghệ Sinh Học Biopro Khánh Hòa sử dụng dưới nguyên lý cơ bản sau:

1. Các chủng vi sinh có thể sử dụng là Bacillus sp, Bacillus licheniformis, Saccharomyces cerevisiae kết hợp với enzyme: Protease, Cellulase, Amylase, Xylanase, Pectinase.

2. Đánh vào buổi chiều từ 18h00 – 20h00 cho kết quả tốt nhất. Có thể lập lại nhiều lần cho đến khi hết tảo lam.

Công dụng:

  • Giúp phân hủy nhanh chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao do phân tôm, xác tảo, thức ăn dư thừa.
  • Làm sạch đáy ao, ít bùn đen.
  • Bổ sung các vi sinh vật và enzyme có lợi cho tiêu hóa tôm, tăng cường tiêu hóa thức ăn cho tôm, cá.
  • Giảm thiểu khí độc NH3, H2S trong ao nuôi.
  • Giảm hiện tượng rong nhớt, diệt trừ tảo độc (tảo lam, tảo giáp) giúp màu nước đẹp hơn.

Liều dùng:

  • Lần 1: đánh men cắt tảo 0,5 – 1kg/1000 m3 nước, hòa với 40 lít nước có bổ sung 1kg rỉ mật đường, sục khí 6 – 12h rồi tạt xuống ao.
  • Định kỳ 3 ngày/ lần tiếp tục đánh men vi sinh cắt tảo với liều dùng: 200 – 300 gam/1000 m3 nước giúp cân bằng mật độ tảo, hệ vi sinh trong ao nuôi tôm.

Chúc bà con nuôi tôm thắng lợi!

  • Trang chủ
  • Phone
  • Mail
  • Zalo